ở nhà ông cũng ít khi từ bỏ những món ăn quen: một quả trứng luộc duy nhất hoặc món kipper chính vì thế ông bác sĩ thường phải mời ông đến để cùng chia sẻ những bữa ăn đầy ắp thức ăn, món thịt gia súc hoặc gia cầm ướp muối lạnh mà bác sĩ đặt một nhà hàng gần đó mang đến tận nhà.
Trong lúc đó chuyện ông Slamber ít có gì nổi bật, nếu như câu chuyện không lái sanng một chủ đề đặc biệt, những phương thức chiếu sáng thời xưa. Ông Slamber thật thà tốt bụng đã trở thành hết sức lãng mạng khi nói đến những ngọn nến, những đĩa đèn hoặc những cây đèn của Karsel. Vì thế, trong con mắt mờ đục của ông giáo về hưu ông Baster Brown gần như trở thành thượng đế vào cái ngày mua được của lão bán hàng tạp hóa ở Triside một chiếc đèn cây thật cao bằng kính to màu xanh có lắp một thấu kính chứa nước đặt trên một đòn tay bằng đồng và tỏa ra một thứ ánh sáng màu xanh mướt mát.
- Tôi cam đoan với ông rằng đó là Kanterpruk! ông Slamber phấn khích kêu lên.
- Kanterpruk?
- Đó là tên của một nghệ nhân hàng thiếc nổi tiếng, ông Slamber tự hào đáp, ông ta sống ở Borough khoảng năm một ngàn bảy trăm chín mươi và đã được vang danh vì tài chế tạo những cây đèn như thế.
Ông Baster Brown chẳng có gì để nói về chuyện ấy, và từ đó cứ mỗi lần ông giáo cũ tới thăm thì cây đèn Kanterpruk lại khiến trái tim nhân hậu, dịu dàng kia vui sướng vì thứ ánh sáng như ánh trăng huyền ảo của nó.
Một lần vào ban đêm, ông Baster Brown bị đánh thức dậy vì những đợt sóng lạ kỳ báo hiệu nguy hiểm.
Đã từ nhiều năm ông không dám ngủ trong phòng tối thui và vẫn để ở đầu giường một ngọn đèn đêm nho nhỏ có cả phao dầu; ánh lửa màu vàng mơ hồ của nó có sức chiến đấu chống lại những đạo quân âm thầm của bóng tối.
Ngọn lửa bé nhỏ ấy bỗng rọi sáng trước mắt ông Baster Brown vừa tỉnh ngủ một hình bóng tan loãng đầy đe dọa trong bóng tối và saÜn sàng tấn công ông; trong những tia sáng của nó loáng lên một hình lưỡi dao lạnh và dài.
Ông Baster Brown nhìn thấy con dao sáng loáng ấy được giơ cao lên một cách hung tợn và từ trong bóng tối có một khuôn mặt bịt băng đen hiện ra như hân hoan đón chờ cơn hấp hối của ông sắp đến.
Ông cảm thấy mình đã chết, nhưng bỗng có một điều khó hiểu xảy ra.
Con dao bỗng rơi xuống, cắm phập vào sàn gỗ, rung lên bần bật, từ bên trong mặt nạ thoát ra một tiếng xì nhỏ, sao tiếng xì là tiếng rên đau đớn và tuyệt vọng rồi cả cái thân hình dữ dội kia đổ vật xuống sàn.
Ông bác sĩ nhảy một bước tới chỗ tên dạ khách, lột chiếc mặt nạ đen, và một giọng hấp hối thều thào cất lên:
- Tha lỗi cho tôi. Tôi muốn lấy Kanterpruk…
Tên cướp tắt thở ngay sau lời thú nhận đáng thương, người ấy không phải ai khác, mà chính là ông Slamber xấu số.
Ông bác sĩ đã gần đoán ra được điều kỳ diệu nào đã gây ra cơn đau tim quật chết ông bạn cũ và cứu sống cuộc đời cho chính ông thì bỗng ông nhìn thấy Polli.
Cái ống điếu treo lơ lửng trong không khí bên trên ngọn đèn đêm đang nhả ra những vòng khói ở ngang chỗ đầu ông có hình ba dấu thập ác. Những vòng khói rất đẹp, đầy đặn và tròn trặn, tựa như chính chúng cũng thấy hài lòng với cái dáng tròn tuyệt vời của mình.
Ông Baster Brown kêu lên một tiếng gằn giọng và đưa tay về phía ông điếu, động tác của ông không được khéo léo khiến ngọn lửa nhỏ bé yếu ớt trong cây đèn đêm tắt ngấm. Khi ông châm lại được thì ống điếu không còn nữa, tuy vậy cả căn phòng vẫn còn đậm mùi thuốc cháy khét lẹt.
Ông phải mất nhiều thời gian để cứu lại thanh danh cho ông Slamber; ông cất dấu đi mặt nạ và con dao của ông bạn rồi kéo xác ông ấy đi cách nhau một trăm bước đến chiếc ghế đá ngoài khuôn viên.
Cô Eddy Bronks có thể đã là xinh đẹp, thậm chí là rất xinh đẹp, nếu như căn bệnh bướu cổ không làm cho đôi mắt màu xanh nhan nhát của cô có vẻ như là hơi dọa nạt người khác một chút.
Ông Baster Brown quen với cô tại nhà người bán hàng thuốc ở Korihill tên là Littelwood, người mà ông hứa chuyển cho cả phòng thí nghiệm và cả những công thức thuốc cao của mình.
Cô Eddy thích nói chuyện tào lao với cả hai người, và như cô thường nói ra không kém phần tự hào, cô là người “chuyện trò chuyên nghiệp”.
Trên thực tế cô là hộ lý trong bệnh viện “New Charte”.
Ông Baster Brown chưa bao giờ chú ý đặc biệt đến phụ nữ, nhưng hình ảnh cô Eddy Bronks chẳng mấy chốc đã không buông tha ông.
“Lần sau gặp nàng ta sẽ xin cưới nàng làm vợ”, nhiều lần ông đã tự nói như vậy.
Lần gặp sau, rồi sau đó là nhiều lần gặp trôi qua, nhưng lời cầu hôn vẫn không sao thoát ra khỏi miệng ông, và mọi câu chuyện đều chỉ qui về việc xem xét các loại thuốc viên nhà Littelwood, các phương thức điều trị bệnh bướu cổ và các trường hợp mắc bệnh đặc biệt mà bác sĩ đã từng gặp trong thực tế.
Một buổi tối mùa thu, ông Baster Brown bắt gặp Littelwood ủ rũ tỳ tay trên quầy thuốc, môi run lên, bàn tay lạnh ngắt.
- Ông biết không, Littelwood rền rĩ, cô Bronks khốn khổ vừa mới ở đây, tâm thần hoảng loạn. Cô ấy mới bị đuổi khỏi bệnh viện sau một cuộc cãi cọ với thượng cấp. Cô ấy bảo rằng cô ấy muốn chết đi cho rồi… Không, không, ông Brown, tôi hiểu những chuyện này… Ông đừng quên rằng bệnh tình của cô ấy có thể dẫn đến thần kinh hỗn loạn. Cô ấy vừa chạy ra phía hồ nước.
Ông Littelwood có một chân tập tễnh nặng nên không thể chạy đuổi theo cô gái tuyệt vọng.
Như điên, ông Baster Brown cắm đầu chạy trên đường phố dài và tối, vừa chạy ông vừa thở dốc, tim đập thình thịch. Ông dừng lại khi thấy trước mặt mình làn nước hồ phẳng lặng dưới ánh trăng.
-Eddy! Eddy! Ông gào lạc giọng.
Và ông thấy cô cúi gập mình qua cái hàng rào ọp ẹp, đầu nghiêng xuống mặt nước tối đen.
- Cô Eddy yêu quý ơi… tôi hết lòng mong muốn…
Chính ở cái nơi không bình thường này, trong cái hoàn cảnh hết sức không bình thường này ông đã tỏ tình với cô và xin đính hôn.
Cô Eddy Bronks đã theo ông về, người phờ phạc và mắt đẫm lệ.
Ông nhóm lửa trong lò sưởi phòng khách, thắp hết mọi đèn, kể cả cây đèn mặt trăng Kanterpruk và với đôi bàn tay lóng ngóng ông đã pha được hai ly rượu kiểu coctail.
- Em thân yêu, ngày mai anh sẽ đi xin giấy phép thành hôn.
Cô không nghe ông nói mà ngửa đầu nhìn lên trần nhà, trong giây lát cái bướu cổ càng khắc họa nét buồn bực sâu sắc trong đôi mắt cô.
- Anh có cái gì thế này, bác sĩ Brown?
Cô vừa thở vừa hỏi.
- Cái gì ấy à?
Cô để rơi mình xuống một chiếc ghế bành sâu lõm bên cạnh lò sưởi.
- Em xin lỗi… em chóng mặt… buồn nôn. Ôi, bác sĩ ơi, anh đừng hút thuốc nữa!
Ông Baster Brown để rơi xuống sàn ly rượu mới pha.
- Nhưng anh có hút đâu, em yêu!
Cô Eddy Bronks đứng bật dậy.
- Kìa kìa, trong góc nhà kia kìa… có người đội mũ sắt… nó trốn… em nhìn thấy chân nó dưới bàn… trời ơi, chân nó như con rắn.
Rồi bỗng cô rít lên:
- Nó ra đây này… nó châm thuốc ở chỗ đèn ấy! Lạy chúa cứu thế!
Cô vùng chạy ra phía cửa; ông Baster Brown muốn giữ cô lại, nhưng cô đã đẩy ông ra với một sức mạnh khủng khiếp.
Ông lảo đảo, mất cân bằng và ngã giúi đầu vào chiếc ghế bành nơi cô vừa ngồi.
Lúc kịp đứng dậy thì ông nghe tiếng cửa ra vào đập mạnh và ông chỉ còn cách lao ra chỗ cửa sổ.
Trong ánh trăng rực rỡ ông nhìn thấy cô gái đang chạy trên đường phố vắng lặng, ông thò đầu ra gọi cô, xin cô quay lại, nhưng bỗng nhiên ông nhìn thấy một bóng đen dữ dội khủng khiếp lướt đuổi theo cô không một tiếng động trên đường phố ngập tràn ánh trăng.
Hôm sau người ta vớt được thi hài cô Eddy Bronks ở hồ nước số hai khu Kemdeltown.
Một năm sau cái chết bi thương ấy ông Baster Brown qua đời. Có một thời gian ông bị bệnh hen và không thể chữa dứt được. Ông Littelwood vẫn thường đến thăm. Ông là người cho chúng tôi biết về những phút cuối cùng của bác sĩ.
Ông ấy hành động rất thiếu lý trí, điều đó làm hại ông người bán thuốc nói: Bạn ông là bác sĩ Ressendl đã kê đơn chỉ định chế độ sinh hoạt và ăn uống, còn ông ta thì lại cứ mãi đi những đâu đâu.
Mưa trút nước và ông trở về như chuột lột.
Tôi mắng cho ông một trận kịch liệt rồi bắt lên giường nằm ngay. Ông điên hay sao mà đi phố bây giờ tôi gắt lên! Không thể hiểu được làm sao trời này lại dám ra đường.
- Tôi vừa thoát được một gánh nặng.
Tôi cặp nhiệt cho ông: gần bốn mươi độ, và tôi hiểu rằng ông đang mê sảng.
Ông bắt đầu lảm nhảm gì đó, đặc biệt là về một cái gương mất bao nhiêu năm tôi mới hiểu được… Trong đó có… cô ấy… cô ấy…
Hai chữ cô ấy ông nhắc lại mỗi lúc một to đến nỗi mấy lần tôi phải lên tiếng bắt ông thôi nói và nằm yên.
Đến gần sáng ông dịu đi, tôi cho rằng ông đã ngủ say, hơn nữa nhiệt độ cũng đã giảm.
Tôi nghĩ, tôi cũng có thể nghỉ một lát, tôi bèn thu mình vào ghế bành và chẳng bao lâu thiếp đi.
Bỗng tôi bừng tỉnh vì ông thét lên.
Ông đã bật ngồi dậy trên giường thở hổn hển, ngực phập phồng như bể lò rèn, và một điều thật là kì lạ tôi chưa từng thấy là ông hút thuốc, quanh người ông là một đám mây thuốc đậm đặc.
- À, đúng nó rồi… đúng nó rồi… bây giờ thì tôi hiểu, tôi hiểu cô ta là ai… Chà, đồ chết tiệt, nó ăn cắp của tôi cái điếu!
Ông đổ vật xuống nằm bất động và không bao giờ tỉnh lại nữa. Nhưng khi đổ xuống ông đã dùng tay làm một cử chỉ lạ lùng, tựa như bắt một cái gì trong không gian. Và đến khi cánh tay rơi xuống thì trong đó có một cái ống điếu dày bằng vỏ bạch dương, trên đầu có khắc ba dấu thập ác.
Người ta không thể nào rút được cái ống điếu ra khỏi tay ông, và có lẽ người ta đã đưa nó theo ông xuống huyệt.
Hết.
------The * End-------